Đồng bằng sông Cửu Long trù phú của ngày hôm nay là biết bao mồ hôi và máu đổ của tiền nhân. Những người khai phá không tên, những chiến binh vô danh, những trận chiến đã trở thành huyền thoại... Thế kỷ 18, sơn hà rung chuyển, cả 2 triều đình vua Lê chúa Trịnh ở Bắc Hà và chúa Nguyễn ở Nam Hà đều lâm vào suy thoái, khủng hoảng trầm trọng. Vua chúa suy bại, quan tham vơ vét, dân chúng đói khổ liên tục nổi dậy, máu đã không ngừng đổ xuống... Dân gian lưu truyền câu sấm: "Mười phần chết bảy còn ba
Chết hai còn một mới ra thái bình" Cuộc long tranh hổ đấu đó đã nổi lên một chiến thần sáng chói bậc nhất trong suốt lịch sử cổ kim nước Việt: Nguyễn Huệ. Đầu năm 1785 gió Chướng thổi mạnh, hạm thuyền Tây Sơn nối đuôi nhau lướt sóng trên dòng Tiền Giang. Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ đang đứng oai nghiêm trên lầu chỉ huy, nhìn ruộng đồng bờ bãi: - Ông đã giao chiến với quân Xiêm vài trận, thấy sức mạnh của chúng ra sao? Phò mã Trương Văn Đa, con rể của vua Thái Đức chấp tay: - Tướng thủy có bọn Chiêu Tăng, Chiêu Sương, lãnh 300 chiến thuyền, 2 vạn quân. Trên bộ thì có bọn Lục Côn, Sa Uyển, Chiêu Thùy Biện, lãnh 3 vạn quân. Ngoài ra còn có mấy ngàn tàn quân do đích thân Nguyễn Ánh chỉ huy. Giặc tuy mạnh, nhưng rặt một lũ cuồng bạo, đi tới đâu đều giết hại bách tính, phóng hỏa cướp của, hãm hiếp đàn bà con gái tới đó. Tôi chỉ hận binh mỏng thuyền ít, không thể một trận giết sạch lũ chúng. - Giặc đông hàng 5, 6 vạn như vậy mà phò mã vừa đánh vừa lui, trước giết Đại đô đốc quân Nguyễn là Châu Văn Tiếp, sau giữ vững phòng tuyến. Binh không mẻ một thiên, khí không hao một vóc. Tướng cầm quân chỉ cầu được như vậy. Ta có lời khen! Phò mã Tây Sơn nghiến răng trỏ về hướng Tây, mắt ngùn ngụt lửa hận: - Hừ! Tốt cho cái thân phò mã này, nhưng... Ông nhìn đằng xa coi, là khói lửa của giặc Xiêm đó, chúng đang giết hại dân ta đó. Đáng hận! Sau một tiếng thở dài, Nguyễn Huệ bỗng quay sang, quắc mắt nhìn Văn Đa: - Để chúng ngủ ở đây một đêm, ngày mai, ta, Nguyễn Huệ xin thề sẽ giết sạch sẽ lũ chúng, lấy máu giặc tẩy sơn hà, lấy đầu giặc tế thần minh. Chúng ta không chỉ đánh thật mạnh, mà phải đánh đến chấn động sơn lâm, đánh cho quỷ thần khốc hãi, để ngàn năm sau giặc cũng không dám bén mảng xâm phạm cương thổ nước Nam!!! Cuối năm 1784, theo lời cầu viện của Châu Văn Tiếp và Nguyễn Ánh, vua Xiêm La là Rama Đệ Nhứt cử bọn Chiêu Tăng, Chiêu Sương, Lục Côn, Sa Uyển, Chiêu Thùy Biện chỉ huy hơn 5 vạn quân thủy bộ xâm lược Gia Định. Đại đô đốc Châu Văn Tiếp dẫn quân đi trước, bị trúng phục kích của Tây Sơn trên sông Măng Thít mà bỏ mạng. Quân Xiêm mất người kết nối, càng hung hăng phách lối, đi tới đâu đều cướp bóc, đốt phá rất tàn bạo. Cả chúa Nguyễn Ánh cũng không can ngăn nổi. Phò mã Trương Văn Đa binh ít thuyền mỏng, đành vừa đánh vừa lui, đồng thời cử người về Quy Nhơn cáo cấp tình hình. Vua Thái Đức liền cử Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ đem binh thuyền vào ứng cứu. Ngay sau khi viện binh Tây Sơn vào đến Tiền Giang, Nguyễn Huệ đã chọn khúc sông Rạch Gầm - Xoài Mút mà bố trận huyết chiến với giặc Xiêm La. Đoạn sông này dài khoảng 7km, lòng sông đủ rộng để dồn bẫy hàng trăm chiến thuyền giặc vào bên trong. Lại có cù lao Thới Sơn ngăn sông làm 2 nhánh, lùm bãi um tùm rất thích hợp để phục binh ẩn nấp. - Tiến lên!!! Vào đầu canh 5 ngày 19 tháng 1 năm 1785, khi hạm thuyền giặc đang hung hăng lướt sóng tấn công về hướng Mỹ Tho, thì có tiếng pháo lệnh nổ vang trời. - Tấn công!!! Mở đầu trận đánh, hai đội thủy binh Tây Sơn từ Rạch Gầm - Xoài Mút bất ngờ lao ra, chốt cứng hai đầu. Cùng lúc đó, từ khắp đầm bãi sông Tiền, dọc cù lao Thới Sơn, bãi Tôn, cồn Bà Kiểu, Rừng Dừa... trăm ngàn đại bác và hỏa hổ của bộ binh Tây Sơn nhất tề nã "mưa đạn bão lửa" vào sườn quân giặc. Quân Tây Sơn chỉ có tiến không được lùi! Kẻ nào rời hàng ngũ, chém không tha!!! Hàng vạn quân Tây Sơn phục kích trên bờ đổ ra giáp lá cà, tiếng hò reo vang trời dậy đất, giáo thương sáng lóa một vùng. Quân ta càng đánh càng hăng, còn giặc Xiêm giống như cá nằm trong rọ chỉ biết bó tay chịu chết. Mạc thị gia phả miêu tả: "Nguyễn Huệ đốc chiến ở phía sau, ra lệnh liều chết đánh, quân sĩ nào không quyết chiến thì chém ngay để làm răn. Vì thế các tướng sĩ đều liều, không nghĩ gì đến tính mệnh... tiến công rất là mãnh liệt." Thấy binh bại như núi lở, chủ tướng Xiêm là Chiêu Tăng quát tháo: - Đừng hỗn loạn. Quân ta đông, kẻ địch ít. Mau mở đường máu phá vây! Bất ngờ một chiến thuyền Tây Sơn đâm sầm vào mạn soái thuyền Xiêm La, hỏa cầu nổ tung tóe khắp nơi. Khi Chiêu Tăng định thần lại thì thấy một võ tướng cầm giáo nhảy bổ xuống như hổ vồ. - Cẩu tặc mau nộp mạng! Lập tức hai chiến tướng lao vào quần thảo. Chiêu Tăng vút song đao gió cắt, Văn Đa múa giáo bạt phong. Chiêu Tăng nghiêng người tránh né, Văn Đa đâm giáo liên hoàn. Qua năm chiêu tám thức phò mã Tây Sơn đâm trúng vai Chiêu Tăng. Nguy thay, bọ ngựa bắt ve, chim sẻ ngồi rình. Khi Văn Đa chưa kịp rút giáo thì tên tướng tiên phong của quân Xiêm là Chiêu Sương đã nhào tới nện chùy vào sườn ông, khiến ông hộc ra một ngụm máu lớn. - Được lắm! Tới một giết một, tới hai giết hai. - Xuống địa phủ mà lớn lối! Ngay lúc này, thêm một lâu thuyền khác húc mạnh vào soái thuyền Xiêm, khiến mọi người đều mất thăng bằng té nhào. Từ trên lầu chỉ huy, một cái bóng oai hùng cầm Ô Long đao nhảy vụt xuống, tựa mãnh long xuất sơn, gầm lên thịnh nộ: - Một đám thất phu mà dám xâm phạm bờ cõi nước Nam! Bỏ mạng lại đây! Nguyễn Huệ mình vận khải giáp, tay cầm thần binh, thân cao vai rộng, mắt sáng lẫm liệt, quả xứng danh thần tướng trời cử xuống để giúp nước Nam. Ngài vung đại đao bổ mạnh xuống đầu Chiêu Sương. cây chùy trên tay hắn run bần bật, đầu gối khụy xuống theo sức nặng của cây Ô Long đao. Chỉ một chiêu mà đã khiến bọn tướng Xiêm là Chiêu Tăng, Chiêu Sương kinh hồn bạt vía, Chúng nháy mắt ngầm ra hiệu, rồi đồng loạt nhảy ùm xuống sông. Phò mã Trương Văn Đa thấy vậy, liền xoay giáo định đuổi theo thì bị Nguyễn Huệ ngăn lại: - Phò mã cẩn thận!!! Ngay lập tức 10 cuộn lửa nóng hực phún đến, đốt sạch sành sanh một góc thuyền, mấy thùng thuốc súng quanh đó bắt lửa nổ tung trời. Khi lửa tắt, ta thấy bọn tướng giặc Chiêu Tăng và Chiêu Sương đã ở trên một khinh thuyền nhỏ, đang phá vây tháo chạy. Văn Đa nghiến răng ken két: - Để sổng hai thằng đầu sỏ. Hận này nuốt sao trôi!!! Nguyễn Huệ trừng mắt: - Ông yên tâm, đã có hai hổ tướng Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân lãnh binh truy kích giặc. Chưa đầy 1 khắc sau, có mấy thớt voi hùng hổ chạy ra bến sông, trên bành voi, nữ tướng Bùi Thị Xuân đứng thẳng, tay cầm thủ cấp đẫm máu của giặc giơ thẳng lên trời xanh: - Đầu tướng giặc Lục Côn ở đây! Tây Sơn bất bại!!! - Bất bại! Bất bại! Bất bại! Lá cờ trên bành voi tung bay phấp phới. Tia nắng đầu tiên rọi thẳng xuống sông Tiền. Sóng ầm ầm cuốn thẳng ra biển lớn, rửa trôi hết huyết thù. Trời vừa rạng sáng thì chiến cuộc cũng kết thúc. Hơn 300 chiến thuyền và 5 vạn quân Xiêm La bị quân Tây Sơn phá tan tành. Hai tướng Chiêu Tăng, Chiêu Sương bị truy kích quá dữ, phải bỏ thuyền chạy theo đường Chiêm Hóa hướng thẳng sang Nam Vang, tàn binh chỉ còn khoảng 1 vạn. Giặc 5 phần chết quá 4 phần. Chính sử của nhà Nguyễn chép: "Quân Xiêm (từ sau khi thua trận Rạch Gầm – Xoài Mút) tuy ngoài miệng thì nói khoác nhưng trong bụng thì sợ Nguyễn Huệ như sợ cọp." Từ ngày nổi dậy ở ấp Tây Sơn năm 1771, qua gần 15 năm chinh chiến, Nguyễn Huệ đã lập được vô số chiến công, lật đổ triều đình chúa Nguyễn mục nát, mấy lần hưng binh công phá Gia Định, đuổi Nguyễn Ánh phải chạy dài. Tay cầm Ô Long đao, thần khí tỏa khắp sa trường, không một ai dám nhìn thẳng vào mắt Nguyễn Huệ. Trận đại thắng Rạch Gầm - Xoài Mút là minh chứng tiêu biểu cho biệt tài và phong cách cầm quân của Nguyễn Huệ: uy phong như rồng, mạnh mẽ như hổ, dứt khoát như đại bàng. Đánh tổng lực, huy động mọi binh chủng thủy bộ phối hợp, đánh không lùi, đánh nhanh thắng nhanh, hổ đã giơ nanh vuốt thì kẻ thù phải vong thân, bỏ mạng. Chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút đã góp phần ổn định mặt trận phía Nam cho quân Tây Sơn. Đặt nền tảng để thiên anh hùng ca mang tên Nguyễn Huệ sẽ được cất vang mãi mãi tại mảnh đất định mệnh của cuộc đời ông...