Transcript for:
Energie und Psychologie im Leben

Thưa đại chúng, hôm nay là ngày 30 tháng Giêng năm 1997. Chúng ta đang ở tại xóm mới trong khóa ăn cư mùa đông. Năng lượng của tránh niệm nó có một công năng là giúp cho tâm lý của chúng ta được vận hành một cách bình thường. Tại vì cái tâm của chúng ta nó cũng giống như là cái thân của chúng ta. Nếu trong đó nó có những cái vùng bế tắc thì nó sẽ sinh ra bệnh. Ban đầu thì chúng ta chưa thấy bệnh. Nhưng mà nếu có một sự bế tắc trong tâm thì những cái triều chứng của bệnh tâm thần. Nó sẽ từ từ phát hiện. Và nếu chúng ta thực tập trước để cho cái sự bê tắc đó đừng có xảy ra, thì chúng ta sẽ không bao giờ bị cái tai nạn là có bệnh tâm thần hết. Trong cơ thể của chúng ta, cái sự lưu thông của máu huyết, là hết sức quan trọng. Nếu mà máu huyết không có lưu thông, thì độc tố nó sẽ ưu động lại trong những cái phần của cơ thể, nhất là những cái phần mà chúng ta ít hoạt động. Và khi mà độc tố nó được chứa chất nhiều thì những vùng đó sẽ đau nhức, sẽ có bệnh hoạn. Cũng như là trên đầu ta nếu mà máu không có chạy cho đàng hoàng trong những huyết quả vi ti thì chúng ta sẽ bị nhức đau. Và khi mà nhức đầu như vậy, có người tới xoa bóp cái đầu cho chúng ta, thì cái việc xoa bóp đó nó sẽ giúp cho máu huyết ở trên đầu nó lưu thông. Và sau đó 15 phút hay nửa giờ ta thấy nó bớt nhức đầu. Bớt nhức đầu ở đây là do sự lưu thông của máu huyết ở trên đầu. Khi mà máu huyết được lưu thông thì những độc tố sẽ được máu huyết chuyển đi nơi khác. Và những độc tố đó sẽ ra khỏi cơ thể ta bằng đường tiểu, hay là bằng đường hô hấp, hay là bằng đường ruột. Vì vậy cho nên xoa bóp là một cái hành động có tính cách trị liệu, xoa bóp cơ thể để cho máu huyết lưu thông và để độc tố được đưa ra khỏi thân thể là một cái phương pháp trị liệu rất hay. Tiếng Hán Việt là An Ma, An Ma Pháp. An tức là Ấn xuống. Còn ma nghĩa là xoa, xoa bóp. Khi mà chúng ta ứng cái ngón tay xuống một cái vùng nào đó của cơ thể, thì ta bắt buộc cái máu ở cái chỗ đó phải đi ra khỏi cái chỗ mà ta ứng xuống. Và cái chỗ đó nó hết máu, ứng xuống thật mạnh thì máu nó phải đi ra ngoài. Và khi mà chúng ta nhấc con tay lên thì máu ở ngoài nó trở lùi trở đó. Và nếu chúng ta tiếp tục cái hành động đó nhiều lần thì là ta đẩy cái máu cũ đi để cho máu mới đi vào lại. Và cứ tiếp tục làm như vậy thì nó sẽ có sự lưu thông tốt đẹp hơn. Là án ma pháp. Chúng ta ai cũng biết rằng khi mà máu huyết không có lưu thông thì 100 chứng bệnh nó sẽ phát sinh ra từ cơ thể. Và vì vậy cho nên có những thứ thuốc uống vào để giúp cho máu nó lưu thông. Có phương pháp xoa bóp để giúp cho máu huyết nó lưu thông. Và có phương pháp vận động để cho máu huyết nó lưu thông. Và sự lưu thông của máu huyết trong cơ thể nó rất quan trọng cho cái sự bình an của cơ thể. Đứng về phương diện tâm, tâm lý cũng như vậy. Tâm lý của chúng ta là một thứ máu và nó phải lưu thông. Nếu nó bị dồn nén, nếu nó bị bế tắc, thì nó cũng tạo ra những triều chứng bệnh hoạn. Và vì vậy cho nên phải có một phương pháp gọi là phương pháp so bóp tâm lý. Làm thế nào để cho tâm lý nó đừng có kẹt nữa và có sự lưu thông trong tâm lý của chúng ta. Ví dụ như trong tâm lý của chúng ta có cái giận hay là cái sợ. mà ta không có dám, không có dám nghĩ tới, không có dám nâng niu, không có dám mời nó lên để mà nhìn mặt, thì những cái hiện tượng gọi là bế tắc tâm lý nó bắt đầu nó xảy ra. Ví dụ như là trong ta có hạt giống của sự sợ hãi. Mà mỗi khi mà ta tiếp xúc với hạt giống có sự sợ hãi đó, thì ta thấy không có dễ chịu chút nào. Vì vậy cho nên chúng ta có khuyến hướng muốn đè nén cái sự sợ hãi xuống. Ví dụ như chúng ta sợ cô đơn, chúng ta sợ hất hủi, chúng ta sợ... Sợ chết, chúng ta sợ già đi, xấu đi, rồi người kia hất hủi ta, người kia ruộng bỏ ta, rồi ta sợ chết cô đơn một mình, già sống cô đơn trong một cái xó. Tất cả chúng ta, ai cũng có cái sợ đó hết. Nhưng mà chúng ta không muốn nghĩ tới, tại vì nghĩ tới nó không có dễ chịu. Và trong cái vùng đó của tâm lý, nó có sự bế tắc. Chúng ta tưởng rằng cái sờ đó... Nó ngủ yên ở chỗ đó, nó không có ảnh hưởng gì tới đời sống hằng ngày của chúng ta. Và vì vậy cho nên chúng ta lầm lơ. Chúng ta biết rằng chúng ta có cái sợ, nó trôn sâu trong cái tâm thức của chúng ta. Nhưng mà chúng ta lầm lơ giống như là ta không có sợ. Thì thực là cái hạt giống sợ rất lớn. Và chúng ta nghĩ rằng nó không có ảnh hưởng gì đến đời sống hằng ngày của chúng ta nhưng kỳ thực nó sai sử chúng ta trong đời sống hằng ngày. Tại vì nó có mặt đó và một cách gián tiếp nó ảnh hưởng tới cái hành xử trong hằng ngày của chúng ta. Sở dĩ ta không có làm cái đó hay sở dĩ ta làm cái đó là do có cái hạt giống của sự sợ hãi, nó trấn ngự. trong cái góc đó của cái tâm lý chúng ta. Chúng ta không biết rằng cái sự sợ hãi đó nó đang sai sự chúng ta, nó điều khiển chúng ta, nó điều kiển hóa chúng ta. Và nếu mà chúng ta có trách niệm thì chúng ta sẽ nhận diện rằng sự dĩ chúng ta không làm cái đó hoặc sự dĩ chúng ta đã làm cái đó là tại vì nó có cái sở nằm ở trong cái chỗ tận cùng của cơ thể ta. Vì vậy cho nên Đức Thế Tôn có khi dạy các thầy, các sư cô đừng có nên để cho những cái hạt giống như vậy nó nằm yên. Và nó tạo ra cái sự bế tắc và phải tìm tới, phải tiếp xúc nó, phải nhận diện nó, phải làm sao để cho nó triệu hóa, nâng lưu trưởng. Cho nên mỗi ngày thì là người tu chúng ta phải xoa bóp. để cho những niềm đau, nỗi khổ kia nó chuyển hóa và chúng ta đừng có sợ. Cũng như là khi mà xoa bóp cơ thể thì đụng nhầm những cái vùng đau nhứt thì chúng ta thấy đau nhứt thiệt. Trong tâm tư chúng ta cũng vậy, có những vùng bế tắc và đau nhứt. Chúng ta động tới thì nó có bế tắc và đau nhứt. Nhưng mà những cái đau nhứt đó nó cần thiết cho cái sự trị liệu. Cho nên tiếp xúc với cái giận, tiếp xúc với cái sợ của chúng ta là điều mà chúng ta phải thực tập hàng ngày. Tôi thế nào cũng phải già, tôi không thể nào tránh khỏi cái sự già đi, đó là tiếp xúc với hạt giống của sự sợ già. Tôi thế nào cũng phải chết, tôi không thể nào tránh thoát cái chết, đó là tiếp xúc với hạt giống của sự sợ chết. Mai này khi tôi ra đi, tôi sẽ không đem theo được bất cứ một cái gì. Đó là tiếp xúc với hạt giống của sự sợ hãi, cô đơn. Hiện bây giờ đây mình đang bám víu vào một người, hay đang bám víu vào hai người, hay đang bám víu vào ba người. Mình đang bám víu vào một cái danh, một cái địa vị, một cái lợi, một cái hột soạn. Mình nghĩ rằng tất cả những cái đó là cần thiết cho sự an ninh của mình, cần thiết cho hạnh phúc của mình. Nhưng mà sự thật là ngày mai khi mình ra đi, mình sẽ không đem theo được với mình bất cứ một cái nào hết, một cái gì hết, bất cứ một người nào hết. Và một người đó là người thương yêu nhất ở trên đời, một cái bằng cấp, một cái địa vị. Một cái trường mục, mình sẽ đi hoàn toàn với hai tay trắng. Và những cái điều đó là sự thật, sự thật khách quan, sự thật rõ ràng, sự thật trắng trợn, mà mỗi ngày mình phải đối diện với nó. Và như vậy tức là mình tiếp xúc với cái hạt giống của sự sợ hãi. Sợ hãi. Bệnh tật, sợ hãi cái chết, sợ hãi sự cô đơn, sợ hãi cái sự mất đi những cái gì mà hôm nay mình trừu mệnh, mình thương tiếc. Chúng ta thấy có hai cái hiện tượng. Cái hiện tượng thứ nhất là cái sự sợ hãi. Và hiện tượng thứ hai là cái tránh niệm nó tìm tới. Nó tiếp xúc với cái sự sợ hãi đó và nó ôm ấp nó để chuyển hóa. Thì chúng ta thấy chân niệm, tức là cái bàn tay làm việc xoa bóp. Cái bàn tay nó tới, nó ấn và nó xoa. Nó bắt buộc máu ở chỗ đó phải lưu thân. Thì cái niềm đau nội khổ kia ở trong cơ thể của chúng ta nó nằm ư động, nó tạo ra bế tắc. Và vì vậy cho nên tránh niềm phải đi tới, phải làm công việc có sự so bóc. Ta biết người có đó. Và trước hết là sự nhận diện. Nếu chúng ta để cho cái sự sợ hại, sự đau buồn đó, nó trở thành ra một khối bế tắc, thì nó sẽ có tác động xấu trên cái đời sống hằng ngày của chúng ta. Và vì vậy cho nên chúng ta phải tìm cách truyền liệu. Chúng ta ai cũng biết rằng cái tâm thức của chúng ta có hai phần. Một cái phần gọi là ý nó nằm ở trên. Và cái phần ta gọi là tàng nó nằm ở dưới. Và chúng ta có những cái niềm đau nội khổ. Nó nằm ở đây. Và những cái niềm đau nội khổ đó. Nó không có nằm yên. Nó đáy. Nó sô. Nó tìm cách phát hiện. Và chúng ta sống đời sống hằng ngày không có trách niệm. Cho nên những cái niệm đau nỗi khổ đó nó càng ngày nó càng lớn. Những niệm đau nỗi khổ nào? Ví dụ như là tuyệt vọng, sợ hãi. Hận thù, thèm muốn, thèm khác. Chúng ta biết rằng những cái khối, những cái khối độc tố đó, nó có ở trong tâm chúng ta. Và mỗi khi mà những cái khối độc tố đó, nó phát hiện được ở trên mạch phẳng của tâm lý, tâm ý thì ta đau khổ. Cho nên chúng ta không có muốn nó phát hiện. Muốn cho những cái khối đau buồn, sợ hãi này không xuất hiện thì chúng ta thường áp dụng cái phương pháp gọi là đè nén hoặc là ngăn cản. Ý nó cũng giống như là cái phòng khách và tàn nó giống như là nhà kho. Và để cho những cái khối đau khổ này nó đừng có lên ngồi trên phòng khách, thì chúng ta tìm cách chiếm phòng khách bằng cách mời những cái cái mà chúng ta muốn vào phòng khách. Ví dụ như là chúng ta dạy trí, chúng ta tìm cách dạy trí. Chúng ta đưa vào trong cái phòng khách này một cái máy truyền hình và mở cái máy truyền hình đó ra. Thì chúng ta có một cái phim, cái phim nó diễn ra. Hay là chúng ta đọc một cuốn tự thuyết, thì chúng ta đọc trong cái thời gian mà chúng ta mãi mê đọc cuốn tự thuyết đó, thì cái phòng khách của chúng ta nó bị chiếm cứ. Và khi mà phòng khách bị chiếm cứ thì những cái người khách khác không có vào được. Trong suốt thời gian chúng ta coi một chương trình vô tuyến thì vậy cũng vậy, cái phòng khách này bị chiếm cứu, thành ra những anh chàng này không có thể leo lên được. Hay là trong trường hợp chúng ta đọc một cuốn tiểu thuyết thì cái phòng khách này cũng chiếm cứu, những anh chàng này không có cơ hội lên được. Và nếu mà không có tiểu thuyết, không có TV thì chúng ta tìm những cách khác, chúng ta nhấc điện thoại lên ta nói chuyện. Và nói chuyện, trong khi nói chuyện với người khác thì mình để hết tất cả ý vào chỗ này rồi, thì những anh chàng này không có leo lên được. Và nếu không có điện thoại, người kia không có nhà thì chúng ta phải tìm cách khác. Chúng ta vô garage lấy xe hơi lái đi, đi đâu cũng được. Nhưng là đừng ngồi một mình với cái phòng khách trống. Tại vì ngồi một mình với cái phòng khách trống thì những anh chàng này nó sẽ trồi lên. Đó là trường hợp của rất nhiều người trong cái xã hội chúng ta. Nếu mà chúng ta nhìn vào từng trường hợp. Của con người sống trong xã hội ngày hôm nay thì chúng ta thấy rằng đó là cái sự thực tập của hầu hết mọi người. Chúng ta rất sợ cái phòng khách của chúng ta trống. Tại vì mỗi khi cái phòng khách của chúng ta trống thì những anh chàng ghê gớm ở dưới này tìm cách nó chung lên. Mà nó chung lên, nó ngồi đây thì mình rất đau khổ. Những cái khối tuyệt vọng. Những cái thèm khát, những cái sợ hãi, những cái hận thù, những cái ganh tỉ, những cái tư tưởng hắc ám ở trong ta, nó trồi lên. Và vì vậy cho nên xâm tiếm phòng khách. Là cái phương pháp của hầu hết những người sống trong thời đại chúng ta áp dụng để ngăn cản không cho những cái buồn đau, khổ đau kia nó trồi dậy. Và chúng ta vô tình hoặc là hữu ý chúng ta xây một cái hàng rào, một cái barrage để chúng ta ngăn cản không cho những cái khối đau khổ đó nó trào lên. Và khi mà chúng ta dùng ép như vậy, thì chúng ta tạo ra một cái thế, một cái tình trạng gọi là bế tắc của tâm lý. Nó lên ta khổ, nhưng mà nó lên được thì nó đỡ. Tại vì nó có cái sự lưu thông. Nhưng mà tại vì ta sợ khổ, sợ tiếp xúc với những cái đó, cho nên chúng ta đè nó xuống. Vậy vậy cho nên nó bế tắc và tạo ra một cái tình trạng bế tắc trong cái... Tâm lý trong cái Psyche là một cái điều nguy hiểm. Tình trạng không lưu thông của tâm lý, the bad circulation of the psyche. Có thể ban ngày chúng ta áp dụng phương pháp chiếm cứu phòng khách, nhưng mà ban đêm, ban đêm thì ta ngủ và ta đâu có thực tập được chuyện. Chúng cứ phòng khách. Cho nên khi mà chúng ta chập mắt đi, thì những cái khối, khổ đau này nó bắt đầu, nó trồi lên. Và chúng ta có ác mộng. Chúng ta đau khổ. Rồi chúng ta sợ hãi. Sợ hãi cái chuyện đi ngủ. Tại đi ngủ thì ta không có, không có kiểm soát được cái phòng khách. Rồi những cái khối đau khổ trong này, nó bị bế tắc, nó tạo ra đủ thứ là triệu chứng. Trong đó có cái triệu chứng mất ngủ, triệu chứng trầm cảm, trầm cảm tức là depression. Mà tất cả đều do cái sự kiện là những cái... Hình tượng tâm lý của chúng ta bị cấm cản, không có được lưu thông. Có những người họ rất sợ, họ sống thường trực trong sự sợ hãi. Mà sợ đây không phải là sợ ma, hay là sợ ăn cướp, sợ ăn trộm, sợ cảnh sát. Nghĩa là không sợ một cái đối tượng bên ngoài, mà cái mà họ sợ nhất là cái trong chiều sâu của tâm thức họ. Những cái đó mà nó trồi dậy một cái thì là nguy hiểm cho họ lắm. Họ có thể đau khổ, đau khổ đến cùng cực. Và trong những lúc đau khổ như vậy, họ chịu không nổi. Họ nghĩ rằng... chỉ có một cách duy nhất để có thể hết đau khổ thôi là đi từ tứ. Cho nên những cái người mà có những cái khối đau buồn lớn lao trong chiều sâu của tâm ý mà có sự bế tắc là rất lo sợ. Họ lo sợ chính cái tâm lý của họ, chính những cái khối. đau buồn đen tối trong cái chiều sâu tâm thức của họ và ban ngày thì họ dùng cái phương pháp cảnh sát để đè nén ban đêm thì lực lượng cảnh sát này không có hiệu nhiệm nữa cho nên họ rất đau khổ về ban đêm những cái người khách mà họ mời vào trong ban ngày là những phim ảnh này Những tiểu thuyết này, những câu chuyện này, nó là, nó thuộc về những cái thức ăn. Thức ăn có thể giúp cho họ quên cái nỗi khổ niềm đau ở dưới này. Chúng ta biết rằng có những người mà tâm lý bất an, mỗi khi họ thấy cái niềm bất an, Bắt đầu cự quậy và muốn trồi lên thì họ làm gì? Có nhiều người họ vô bếp họ mở tủ lạnh. Họ mở tủ lạnh họ lấy thức ăn ra họ ăn. Tại vì trong khi họ ăn như vậy họ có cái chuyện để mà làm. Họ nếm, họ nhai, họ nuốt và họ bần rộn. Và vì vậy cho nên họ sống sót được những cái giây phút đó. Trong thời đại chúng ta, Có nhiều người dư dạ thực phẩm và trong nhà lúc nào cũng có thức ăn để trong tủ lạnh. Và mỗi khi mà thấy bất an trong tâm, họ vô bếp, họ mở tủ lạnh, họ ăn. Và trong khi ăn như vậy thì họ cảm thấy cái sự bất an đó nó nằm yên được trong thời gian nào đó. Và thực tập cái kiểu ăn, Cả ngày họ càng mọp ra, ăn để cho đừng có bị những khổ đau trong tâm trấn ngừa. Ăn mà không ngưng lại được. Đó là chứng bệnh của rất nhiều người trong xã hội tiêu thụ ngày hôm nay. Trong khi đó, ở các nước chậm phát triển, Có đâu mà ăn, đâu có cái tủ lạnh có sẵn thức ăn. Thành ra những lúc đói phải đi kiếm việc, phải đi xin việc, phải khuân vác, phải quét chợ, phải làm đủ thứ. Thì trong những lúc đó thì đâu có thời giờ để mà ngồi mà ngầm nhấm cái niềm đau nỗi khổ của mình. Cho nên những cái lúc đó làm việc cực nhọc, tiêu xài cái năng lượng của thân thể, thành ra đỡ lắm. Những cái người mà đang bị bệnh tâm lý, Nếu được đưa ra để làm công việc lao động thì nó sẽ được đỡ khổ nhiều lắm. Nhưng mà nếu những người đó giàu, có tiền bạc, có thức ăn thì họ lâm vào tình trạng rất khó khăn. Ở đây chúng ta không có ăn những thức ăn gọi là đoàn thực, chúng ta ăn những thức ăn gọi là xúc thực. Chúng ta coi phim, chúng ta đọc tư thuyết, chúng ta đọc báo, chúng ta nói chuyện, chúng ta đi dự nhạc hội, chúng ta đi khiêu vũ, chúng ta đi cine. Thì trong khi mà tiêu thụ những cái sản phẩm có độc tố như vậy, Thì chúng ta đưa vào trong tàn thức những cái độc tố đó. Và những độc tố đó càng ngày càng làm cho những cái niềm đau, nỗi khổ này nó tăng tiến lên. Ví dụ trong khi coi phim thì chúng ta ưa thích những cái cảm giác mạnh. Như là sợ hãi, hồi hộp. Bởi vì phim mà không có sợ hãi, hồi hộp hay là đánh động với sự thèm khác. Tuyệt vọng hay hận thù của mình thì phim không có hay. Phim phải có mấy cái này mới hay, mới là hấp dẫn. Ta sống trong da thịt của cái nhân vật chính. Khi người đó đang lâm vào tình trạng tuyệt vọng thì ta cũng tuyệt vọng theo. Khi người đó đang lâm vào tình trạng sợ hãi, ta cũng sợ hãi theo. Khi người đó đang sống trong tình trạng thèm khát thì ta cũng thèm khát theo. Cái này gọi là tiêu thụ văn nghệ. Và trong khi chúng ta tiêu thụ những sản phẩm văn nghệ như vậy, chúng ta liên tục đưa vào trong tàn thức của chúng ta những cái độc tố, mà những độc tố đó để làm gì? Để nuôi lớn. Những cái niềm đau, nỗi khổ đã có sẵn trong ta. Và vì vậy cho nên cái tình trạng nó càng ngày. Càng nguy kịch, càng nặng nề, cái phương pháp gọi là chiếm cứu phòng khách là một phương pháp rất là nguy hiểm. Mà những người đau khổ quanh ta, họ đang làm như vậy, họ đang làm như vậy. Thành ra cái phương pháp gọi là chiếm cứu phòng khách này. Chúng ta không nên áp dụng, chúng ta phải nên áp dụng những phương pháp khác. Cái này là trì liệu nhất thời nhưng mà không phải trì liệu. Theo phương pháp của Bụt thì là mình phải giữ giới, phải thực tập 5 giới quý bảo. Nghĩa là thấy tình trạng của mình nó đã xấu như thế này rồi thì phải lập tức... Chẳng đứng lại những cái nguồn thực phẩm độc hại. Và giới thứ năm là giới rất quan trọng. Đứng về phương diện gọi là tiêu thủ. Giới thứ năm tức là phải có canh đảm chấm dứt cái nguồn thực phẩm nó đem vào độc tố trong cơ thể chúng ta. Giới thứ tư cũng vậy. Giới thứ ba cũng vậy. Giới thứ hai cũng vậy, giới thứ nhất cũng vậy, tất cả năm giới đều có mục đích chẩn đứng những nguồn thực phẩm độc hại. Nhưng mà nếu để phòng khách trong không thì nó nguy hiểm lắm. Do đó cho nên phải làm thế nào để trong phòng khách chúng ta có được những người khách mà không có đưa vào độc tổ. Ví dụ như khi chúng ta ngồi nghe pháp thoại. Khi mà chúng ta ngồi nghe pháp thoại thì trong phòng khách của chúng ta nó có những người khách rất là quý. Đó là những cái... Những cái tư tưởng, những cái ước nguyện nó lành mạnh mà ta tiếp nhận trong suốt thời gian ngồi nghe pháp thoại. Pháp đàm cũng vậy. Trong khi đi thiền hành cũng vậy. Chúng ta được tiếp xúc với tăng thân, chúng ta được tiếp xúc với thiên nhiên. Và cái phòng khách của chúng ta đang tiếp những người khách rất là quý. Và ta có thể tiếp được các vị Bồ Tát, các vị giác ngộ trong tâm tượng của chúng ta. Ngồi nói chuyện với một sư cô, một sư chú có hạnh phúc, có tránh niệm trong đời sống tu tập hằng ngày. Thì mình đang được tiếp xúc với những loại thực phẩm mà nó nuôi dưỡng mình. Và đó là thực tập năm giới. Thực tập năm giới nghĩa là chấm dứt những nguồn thực phẩm độc hại và bắt đầu tiếp xúc với những nguồn thực phẩm lành mạnh. Trong ta, nó có những hạt giống tốt như là hạt giống của... thương yêu, hạt giống của từ bi, hạt giống của tránh niệm, hạt giống của tha thứ, hạt giống của niềm vui. Nhưng mà những hạt giống này không có được tươi tẩm, không có được... tiếp xúc cho nên nó càng ngày nó càng nhỏ trong khi những cái hạt giống khổ đau mỗi ngày mới được tưới tấm cả. Và vì vậy cho nên cái phương pháp là làm thế nào để mà tiếp xúc được với những hạt giống tốt, nó trôn vùi trong tạng thức của chúng ta. Theo cái phương pháp thực tập thì hạt giống của tránh niệm nó có sẵn ở trong Tâm ở trong tàng thức ta. Và nếu chúng ta thực tập tránh niệm, thì chúng ta làm cho hạt giống này nó càng ngày càng lớn. Và thực tập hạt giống tránh niệm, nghĩa là làm thế nào để cái hạt giống tránh niệm đó trở thành ra một cái tâm hành, nó có mặt thường xương ở trong cái phòng khách của chúng ta. Chúng ta thực tập hơi thở có ý thức. Và tránh niệm về hơi thở nó có mặt. Một phút, năm phút, mười phút, nửa giờ, một giờ. Và luôn luôn ở trong phòng khách chúng ta có một người khách quý. Người khách đó tức là bụt. Tránh niệm là bụt. Thở và nhìn màu xanh của cây cỏ. Thở và miễn cười với trăng sao. Thở và tiếp xúc với... Anh sản của bình minh thở và tiếp xúc với những cái gì lành mạnh tươi mát và mồ nhiệm của sự sống và chúng ta có thể mời những người khách quý như vậy trấn ngự trong cái phòng khách của chúng ta Tự đặt mình vào một khung cảnh Một khung cảnh tốt như là khung cảnh của một tăng thân. Trong khung cảnh của một tăng thân thì chúng ta thấy có nhiều người có hạnh phúc. Chúng ta thấy trong cái khung cảnh của tăng thân đó không có những điều kiện xấu, nó không có những nguồn lương thực xấu. Trong một tăng thân như thế này, chúng ta không có tiêu thụ những sản phẩm có độc tố. Chúng ta ăn chay. Chúng ta không có coi những cái phim ảnh độc hại, chúng ta không có đọc những cái sách vở độc hại, chúng ta không nói những câu chuyện độc hại, chúng ta không tiếp xúc với những cái gì có tính cách bạo động, hần thù. Và chúng ta tiếp xúc với sự thực tập hàng ngày, với những thầy, với những sư cô, với những anh, với những chị đang tu tập thiền hành, thiền tỏa, hơi thở, nụ cười v.v. Và như vậy tự đặt mình vào trong một hoàn cảnh tốt của tân thân. Đó là một chuyện thực tập của chúng ta. Đó là cái hình thái thực tập của chúng ta, đặt mình vào một hoàn cảnh tốt. Để rồi trong hoàn cảnh tốt đó, ta có thể tiếp xúc được với những cái hạt giống tốt đẹp trong tàn thức của chúng ta. Chúng ta nuôi lớn cái hạt giống tránh niệm. Và chúng ta đốt sáng cái ngọn đèn tránh niệm Cả ngày, cả đêm ở trong cái phòng khách của chúng ta Và khi mà những cái khối đau Những khối đau buồn trong ta nó đồng đẩy, nó đòi đi lên Thì ta mở cửa ta cho phép Nên lên đi, không sao đâu Và ta cho phép nó phát hiện. Có khi tránh niệm đi xuống tận cái hang cùng ngõ hẹm đó. Có khi tránh niệm của chúng ta đi xuống tận cái vùng cấm địa đó, cái vùng đau nhức đó, cái vùng bế tắc đó. Và tiếp xúc. Có khi từ những cái vùng bế tắc đó, chúng ta mở cửa để cho những cái khối đau đó nó trồi lên, chúng ta không sợ nữa, tại vì chúng ta đã có tránh niệm, tránh niệm là buộc. Cho nên khi mà cái khối đau nó đi lên, thì chúng ta phải có căng đảm, và chúng ta nhận diện khối đau đó, và chúng ta ôm ấp khối đau đó trong cái vùng tránh niệm của chúng ta. Trước khi thực tập thì chúng ta rất sợ những cái khối khổ đau này nó đi lên, nó đi lên nó làm cho tăng hoang, tại vì chúng ta chưa biết cách nhưng bây giờ chúng ta đã biết cách rồi. Cách của chúng ta là cách nào? Cách của chúng ta là chúng ta tu tập, chúng ta làm lớn lên cái năng lượng của tránh niệm. Và khi có năng lượng của tránh niệm, khi năng lượng của tránh niệm nó có mặt trong phòng khách rồi, thì không có lý do gì mà chúng ta phải sợ hãi. Chúng ta cứ mở cửa để cho những cái khối đau buồn này nó đi lên. Chúng ta không có đè nén, không có tranh đấu với nó nữa. Chúng ta cho nó đi lên và chúng ta mở rộng hai cái vòng tay chúng ta để ôm ấp lên nó. Chúng ta nhận diện nó. Nó là chúng ta. Nó chính là chúng ta. Chúng ta nhận diện nó. Chúng ta nói tội nghiệp quá. Và chúng ta ôm lên nó. Mà cái năng lượng tránh niệm càng mạnh, thì cái sự ôm ấp và vỗ về đó nó càng có hiệu nghiệm. Mà muốn cho năng lượng tránh niệm mạnh, thì mỗi ngày ta phải thực tập thiền thở, thiền đi, thiền ngồi. Thiền thở, thiền đi, thiền ngồi, thiền ăn, thiền làm việc. Đó là những phương pháp để nuôi lớn trách niệm. Và khi trách niệm có mặt rồi thì không có lý do gì mà ta phải sợ hãi. Ôm ấp lên nó. Và sau một thời gian ôm ấp lên nó, 5 phút, 10 phút, 15 phút, 20 phút, thì nó nhẹ đi. Và cái khối đau này, nó đi trở vào, nó đi trở vào trong tạm thức. Nó đi vào trong tạng thực. Nó chưa chuyển hóa, nhưng mà nó có nhẹ hơn lên được một chút, ví dụ như một phần ngàn. Nó nhẹ đi, thế nào nó cũng có nhẹ đi. Tại vì trong khi mà cái vùng năng lượng của tránh niệm ôm ấp nó, Thì thế nào nó cũng có một sự chuyển biến ở trong lòng nó. Và nó mất bớt đi một chút cái năng lượng của nó trước khi nó trở về lại giữa cái chiều sâu của tâm thức. Cho nên khi mà ông Thầy Tu mỗi ngày ngồi yên và nói rằng Tôi thế nào cũng phải già, tôi không thể nào tránh thoát cái già. Tôi thế nào cũng phải chết, tôi không thể nào tránh thoát cái chết. Thì như vậy nghĩa là ông Thầy Tu cho phép mời cái khối sở đó lên và dùng năng lượng của trách niệm để ôm ấp. cái nỗi sợ đó và sau 5 phút, 10 phút thì khối sợ đó đi trở lùi lại trong chiều thấp tâm thức nhẹ hơn một chút và nếu mình làm ngược lại tức là mình chẳng đứng nó, không cho nó lên thì càng ngày nó càng lớn mà có một điều đã xảy ra là mình đã cho Phép cái tâm hành này nó lưu thông như là máu huyết ở trong cơ thể. Và ngày mai lại ông Thầy Tu cũng ngồi xuống và nói rằng Tôi thế nào cũng phải già, tôi không thể nào tránh khỏi cái sự già. Tôi thế nào cũng phải bệnh, tôi không thể nào tránh khỏi được sự bệnh. Tôi thế nào cũng phải chết, tôi không thể nào thoát khỏi cái chết. Đó là sự thực tập. Và thực tập với cái gì? Với năng lượng tránh niệm. Nếu không có năng lượng tránh niệm thì khi mà cái sợ đó lên thì nó làm cho mình đau khổ vô cùng. Nhưng mà nhờ có năng lượng tránh niệm, thành ra năng lượng tránh niệm ôm lấy cái sợ đó. Và sau một thời gian, 5 phút hay 7 phút, thì cái sợ đó trở lùi lại cái vị trí của nó trong tàn thức, yếu đi một chút, một chút xíu thôi. Và ngày mai ông Thầy Tu sẽ làm lại cái điều đó. Và nhờ cái sự thực tập đó mà ông Thầy Tu tạo ra được cái tình trạng lưu thông tốt của tâm lý. Mà chính Đức Thế Tôn đã thấy được điều này. Tại vì sự thực tập yoga là vận hành. Về cơ thể cũng như về tâm lý, nó phải có sự vận hành, nó phải có sự lưu thân. Và tâm lý, những cái tâm hành, tức là máu của tâm, và phải làm thế nào để cho những cái tâm hành này, nó có quyền lưu thông ở trong cái lĩnh vực của tâm ý. Nếu chúng ta giữ lại được cái niềm đau nỗi khổ này lâu hơn một chút, ôm ấp nó lâu hơn một chút, và dùng cái năng lượng tránh niệm để nhìn sâu vào trong lòng của cái tâm hành này, thì chúng ta chuyển hóa nó được nhiều hơn. Và khi mà nó đi trở về, Cái lĩnh vực của tàn thức thì nó sẽ yếu đi nhiều hơn. Nhưng nội một cái chuyện ôm lên nó một vài phút và nhận diện nó trước khi buông cho nó trở về đã có ít lợi nhiều rồi. Ít lợi đó gọi là tạo ra cái tình trạng lưu thông của tâm lý. Thì ai là những người sắp sửa bị những cái bệnh tâm lý? Ai là những người có những cái niềm đau, nỗi khổ mà rất sợ hãi, không có muốn, không có dám để cho nó trồi lên thì phải áp dụng cái phương pháp này. Rất hay. Tức là phải tới với tăng thân, phải thực tập đi thiền hành, ngồi thiền tòa, thực tập quán niềm mây thở, thực tập nuôi dưỡng tránh niệm. Và khi có tránh niệm đó rồi thì mình mở cửa cho những khối đau này đi lên, đừng có sợ. Sống với tăng thân lại còn có cái hay nữa, là nếu mình chưa vững lắm, mình đã có một ít tránh niệm rồi, mình sẵn sàng mở cửa cho nó đi lên, nhưng mình còn hơi ngán, thì mình nhờ, mình mời một thầy, một sư cô, một thiền sinh khác hiểu mình, thương mình, ngồi chung với mình. Có thể mình vừa nắm tay người đó, mình vừa thở, và mình mở cửa. Tại vì luôn luôn khi có một thiền trí thức ngồi bên mình Nói Chị sẽ im trời cho em Anh sẽ im trời cho em Em cứ mở cửa cho nó lên đi, không sao Và cái năng lượng Chánh niệm của em có thể là đủ Mà trong trường hợp năng lượng của em Chưa đủ thì có chị đây, không có sao hết Đó là cái sự hồ niệm Của Tăng Thần Hồ niệm Hồ niệm tức là cái tránh niệm, nó yểm trở cái tránh niệm kia. Tránh niệm kia có thể là chưa đủ mạnh, thì cái tránh niệm của mình phát xuất ra để cho nó mạnh. Cũng như là một cái bình acqui mà nó không có đủ điện để làm sáng lên cái bóng điện đó, thì mình có bên cạnh một cái bình acqui khác, mình truyền cái điện này sang cái điện kia. Cái đó gọi là hồ niệm Có những cái nghiệm đau nổi khổ mà một mình mình, mình chịu không nổi. Nhưng mà khi mình ở trong một cái tăng thân, có sự hiểu biết, có sự thương yêu, có cái sự gọi là liên đới, solidarity, thì mình thấy mình mạnh hơn, mình có khả năng chịu đựng được những cái khổ đau, những cái khó khăn đó. Nếu mình một mình thì năng lượng của mình không đủ. Nhưng tại vì mình không phải một mình, nên mình tiếp nhận được năng lượng của các bạn tu. Cái đó gọi là hồ niệm. Như trong trường hợp sư anh Pháp Chúa, mẹ mất. Nếu mẹ mất trong tình trạng sư anh ở một mình, thì chắc có thể sẽ khó khăn hơn. Nhưng mà có một tăng thân. Bảo quanh, chăm sóc, nâng đỡ, yên trợ. Vì vậy cho nên sư anh có thêm được sức mạnh để đối phó với tình trạng rất khó khăn. Rồi thì khi mà sư chị trí giác điện thoại về Việt Nam, thì ở Việt Nam... Sư cô Giê-min, Thầy Quảng Hoa, Thầy Minh Tảnh mới gửi phát qua và nói rằng được tin thì các vị ở bên đó chuẩn bị để đi về Trà Vinh để mà lo tăng lễ. Thì Sư Anh Pháp Trú mới thấy rõ ràng là mình không phải là một mình, mình đang được bao bọc bởi một tăng thân lớn và tăng thân cho mình rất nhiều năng lượng. Và vì vậy cho nên Sư Anh Pháp Trú đang đi qua, đã đi qua những ngày khó khăn nhất của mình dễ dàng hơn. Một cách dễ dàng hơn là khi mà sư anh phải đi một mình, cái đó gọi là hồ niệm. Vậy thì trong cái trường hợp mà mình có những cái khối đau, những cái niềm đau nỗi khổ lớn, mà mình thực tập tránh niệm một mình, thấy nó chậm chạp, nó chưa vững vàng, thì mình phải tìm tới một tăng thân. Tìm tới một tăng thân để mình nhờ cái sức hồ niệm đó, nhờ cái hoàn cảnh đó. Và sau một thời gian thực tập như vậy, tránh niệm mình lớn, thì mình bắt đầu có thể mở cửa để cho những cái niệm đau, nỗi khổ nó đi lên. Nếu không có tránh niệm mà mình để cho nó đi lên, thì mình có thể ngã quỷ. Mình có thể bị đe bẹp bởi những cái nỗi khổ, niềm đau đó. Nhưng bây giờ mình đã có tránh niệm, và nhất là mình đã có hồ niệm. Thành ra mình vững tâm mở cửa cho những cái niềm đau, nỗi khổ đó, nó đi lên. Và khi mà nó đi lên thì mình thấy tội nghiệp quá và mình ôm lên nó. Tại vì nó chính là mình. Đó là nguyên tắc bất nhị. Cái tránh niệm này, cái tình thương này, Cái hiểu biết này là mình, mà cái tuyệt vọng kia, cái sợ hãi kia, cái hận thù đó cũng là mình. Và chính mình ôm lấy mình cũng như là mẹ ôm lấy con. Mẹ với con là một. Có thể là trong những ngày đầu mình chỉ có thể ôm được cái nỗi khổ, niềm đau của mình một hai phút, rồi nó đi xuống. Trong khi đó mình đọc kinh hay là mình nghe pháp. Rồi ngày mai mình cho nó lên lại lần nữa, mình ôm nó thêm một phút nữa, ba phút, bốn phút, rồi mình cho nó đi xuống. Ngày mốt mình ôm nó lâu hơn nữa. Mỗi ngày mình đều tiếp nhận thêm những cái chất bộ dưỡng. dưỡng của chánh pháp của An Lạc. Mỗi ngày mình chế tác thêm năng lượng chánh niệm và mỗi ngày mình trở thành mạnh hơn, có khả năng hơn để ôm ấp và chữa hóa những cái nỗi đau niềm đau nỗi khổ của mình. Và mình tạo ra được cái cái tình trạng lưu thông của tâm lý. Và nếu mình làm như vậy được một tuần lễ, hai tuần lễ, ba tuần lễ, thì những cái triệu chứng của bình tâm thần nó từ từ nó giảm bớt. Những cái triệu chứng của trầm cảm, của depression nó từ từ nó giảm bớt. Nói dạng bớt là vì phép lạ nào? Không phải là giờ nhờ cái sự cầu nguyện, mà nhờ là mình mỡ cỡ được và mình cho phép những cái hiện tượng tâm lý, tức là những cái tâm hành của mình, nó được tự do lưu trưởng. Trong khi mình ngồi thiền, mình có thể theo cái phương pháp thiền hướng dẫn. Mình có một bài tập mình muốn làm theo, nhưng mà nửa chừng bài tập nếu mà cái niềm đau nỗi khổ nó trôi dậy, mà nếu mình có thể tiếp tục được cái bài thiền hướng dẫn đó thì mình tiếp tục. nếu cái niềm đau nỗi khổ này nó lớn quá, nó đòi mình phải chú ý tới nó thì mình có thể để cái bài tập hướng dẫn, thiền tập hướng dẫn sau một bên, mình ôm lên nó, thôi được rồi ta sẽ ta sẽ chăm sóc cho người I take care of you cũng như bà mẹ trong khi đang say sưa làm cái bánh ngon nhưng mà đứa con nít nó khóc Lớn quá thì bà mẹ phải đành buông cái bánh xuống để đi vào ấm đứa con nít trở lên. Trong khi mình đang ngon lành, mình theo một cái bài tập thiền hướng dẫn mà nếu cái kia nó không có chịu. Nó cử quẩy, nó đòi lên, thì mình phải bỏ cái kia lại, ngưng cái kia lại, và mình ôm lấy cái niềm đau nỗi khổ của mình, giống như là mình bà mẹ ôm lấy đứa con, nó đang đau khổ. Ngày hôm kia có một người thợ, một ông technician tới chữa cái máy photocopy. Phương Khê, ông ta giỏi lắm, còn trẻ nhưng mà giỏi lắm, đã chữa cái máy đó hai lần và mỗi lần chữa đều hay hết. Thì thầy mới nghĩ rằng mình cũng phải vậy mới được. Mình là người tu, mà khi mình được nhờ phải tới chữa một cái máy hư. Tức là có một người có những niềm đau, nỗi khổ mà không có giải quyết được, mà cần tới mình thì mình tới, mình cũng phải có khả năng để trì liệu và giúp đỡ cho người kia. Mình ở đây là để học cái đó. Sau khi chuyên viên đó đã chữa xong máy của thầy rồi và thầy in được rồi, thầy nói ông giỏi quá, ông đã được huấn luyện ở đâu, bên Tokyo hay là ở Pháp? Nói tôi được huấn luyện tại Pháp. Thì nếu một sư cô sư chú được một người cầu cứu mà tới có thể tháo, gỡ, lắp. chùi rửa làm mới được cho người đó thì như vậy là sư cô sư chú là một chuyên viên giỏi và người ta hỏi được huấn luyện tại đâu thì mình nói sẽ được huấn luyện tại Việt Nam hay tại Làng Mai thì nói tôi được huấn luyện ngay tại đây tức là mình phải có đủ cái tài nghề của người chuyên viên Trong những năm tháng mình được thủ hướng tại đây, mình phải nắm vững cho được phương pháp trị liệu. Và mình chỉ có thể trị liệu được người khác khi mà mình trị liệu được chính bản thân của mình. Nếu bản thân của mình có những niềm đau, có những sự bế tắc, thì mình phải dùng bàn tay, tránh niềm của mình để tháo gỡ những bế tắc đó. Để tạo lập, để tái lập ra cái sự lưu trưởng của tâm lý, cũng như là trong cái máy gọi là photocopy, nó có kẹp cái gì thì bàn tay của chuyên viên sẽ phải đồng tới, sẽ phải tháo ra, sẽ phải trùi rửa. Và cuối cùng thì làm cho cái máy nó hoạt động trở lại. Một cách bình thường, chúng ta cũng vậy. Nếu trong tâm của chúng ta nó có những chỗ kẹt, nếu chúng ta có những cái niềm đau khổ, như là sự giận hờn, như là sự ganh tị, như là mặc cảm từ tôn, như là mặc cảm từ tiên, như là sự sợ hãi, tất cả những cái điều đó. Mà chúng ta cứ để y nguyên thì không được. Chúng ta phải tiếp xúc nó. Chúng ta phải... Nhân dân nó, chúng ta phải chữa hoa nó, chúng ta phải tạo ra cái tình trạng lưu thông, tốt đẹp của tâm lý. Và khi mà chúng ta tạo ra được cái tình trạng đó rồi, thì chúng ta sẽ có sức khỏe, sức khỏe, sức khỏe của tâm lý. Mà có sức khỏe của tâm lý, tức là có sự an lạc, có sự hạnh phúc. Mà có an lạc, hạnh phúc thì chúng ta mới có thể chia sẻ. cái an lạc hạnh phúc đó cho người khác Trong 16 phương pháp thở mà Đức Thế Tôn chỉ dạy, có những hơi thở có mục đích là ôm lấy những niềm đau, nỗi khổ của mình và làm cho nó yên. Tâm hành dựa lại. An tịnh tâm hành. Tôi thở vào. An tịnh tâm hành. Tôi thở ra. Breathing in, I calm my mental formations. Breathing out, I calm my mental formations. Thì cái tâm hành đó có thể là tâm hành sợ, tâm hành tuyệt vọng, tâm hành giận dữ. Tâm hành ganh tỷ, những cái tâm hành đó mình phải ôm lên nó. Và khi mà ôm lên nó, thì chúng ta đừng có nghĩ rằng chúng ta phải tranh hữu với nó. Nó là một cái vùng đau khổ. Và chúng ta phải ôm lấy cái vùng đau khổ đó bằng một cái năng lượng tránh nhầm của chúng ta. Cũng như là khi mà trời nóng, Chúng ta mồ hôi, mồ cây nó chảy đầm đìa, chúng ta cầm cái quạt, chúng ta quạt như thế này. Chúng ta quạt như thế này, chúng ta đâu cần phải đánh cái nóng, đánh đuổi cái nóng, quạt như thế này. Rất thương yêu, rất nhẹ nhàng. Thì cái tâm hành đó có thể là một cái nắm tay, là cái giận, là cái bực bội, là cái lo buồn. Thì mình ôm nó như thế này, cái bàn tay khác ôm nó như thế này. Chỉ cần ôm thôi, chỉ cần nhận diện nó thôi. Và trong khi đó thì mình thở, giống như cái quạt vậy. Nếu quý vị từng thực tập thì quý vị đã thấy rõ rằng là mình đang thực tập tránh niệm đó, đang thực tập thở và cái hơi thở mình thở vào và thở ra nó giống như là cái gió mà từ cái quạt nó tiết ra đó. Nó phe phẩy, nó ôm ấp, nó mơn trắng, nó vuốt ve cái nỗi khổ, nụ đau mà mình đang có. Tuy rằng nỗi khổ niềm đau nó đang có đó, nhưng mà mình không có khổ đau như là khi mà mình không thực tập. Quý vị có thấy như vậy không? Khi mà sứ em nó nói câu gì đó, mình bực, mình không có nói gì hết. Mình đứng mình thở, mình thở như vậy. Mà nếu mà mình làm được được chừng một phút, hai phút thì tự nhiên, cái bực mình này nó tan biến ra liền, không còn ở lâu được. Rồi mình thấy nó hiểu nghiệm rõ ràng là chỉ cần đứng đó hay là ngồi đó im lặng mà thở thôi là nó hiểu nghiệm. Trong những cái bài mà quý vị làm để làm cho thầy, Nó có cái đó, con rất hạnh phúc là tại vì con có những phương pháp thực tập để trong túi. Không có áp dụng thì thôi, hay mà đem ra áp dụng thì thế nào cũng có hiệu quả. Những câu như vậy làm cho thầy rất ấm phổi. Nó chứng tỏ rằng là người viết đã có thực tập và thực tập đã có hiệu quả. Chỉ còn cái là mình có chịu đem ra để thực tập hay không mà thôi. Bất cứ một cái niềm đau, nỗi khổ nào mà nếu mình chấp nhận đó, mình ôm lên nó và mình thở ở trên nó, thì thế nào nó cũng đỡ. Và nếu tiếp tục làm thì nó trộn hoạt. Cho nên nhận diện đơn thuần trước, rồi ôm ấp lên nó, thở ở trên nó. Và khi năng lượng tránh nhầm của mình lớn lên rồi, mạnh lên rồi, thì nhìn sâu vào nó. Và có thể là trong khi mình nhìn sâu vào nó, mình bật cười. Mình bật cười. Cười ai? Cười chính mình. Trời ơi, có như vậy mà mình cũng giận nữa. Thì tự nhiên cái giận của mình nó tan thành mây khỏi. Trời ơi, có vậy mà mình cũng giận nữa. Thiệt là mình là đồ ngu si, ngu si thược thiệt. Tại vì tất cả những khổ đau của mình là do vô minh mà nó ra hết. Nó có những hơi thở mà Đức Thế Tôn dạy cho mình để mình nuôi lớn hạnh phúc trong mình. Tại vì hạnh phúc trong mình rất cần thiết. Nó cho mình năng lượng để mình có thể ôm ấp lấy những niềm đau khổ. Thở vào tôi thấy, cảm thấy mừng vui. Thở ra tôi cảm thấy mừng vui. Mừng vui vì cái gì? Tại sao mà phải mừng vui? Tại sao mà mừng vui được? Là tại vì có những cái sự thật, có những gì đang xảy ra. Mà nếu mình nhận diện nó, thì mình thấy quả thật là mình rất có may mắn. Đó là đối tượng của bài tập mà chúng ta vừa làm. Chúng ta không có trách niệm thì thôi, nhưng mà nếu có trách niệm thì chúng ta nhận diện ra rằng chúng ta rất may mắn, được sinh ra làm người. Được gặp tránh pháp, được sống trong tăng thân, được thực tập mỗi ngày, được có hai con mắt sáng, được có hai chân còn khỏe, biết bao nhiêu là hạnh phúc. Và nhờ có tránh niệm nhận thấy được cái hạnh phúc đó. Và tránh niệm nó như là một cái nguồn năng lượng. Nó đem lại cho mình không biết bao nhiêu là niềm vui, và niềm vui đó rất cần thiết, như là một cái năng lượng để có thể ôm lấy những khổ đau và triển hóa những khổ đau đó. Thì trong 16 cái phương pháp thở đó, chúng ta thấy có đủ tất cả những cái để cho chúng ta thực tập. Nuôi dưỡng tránh niềm, nuôi dưỡng niềm vui, ôm ấp nỗi khổ đau, quán chiếu vào trong cái bản chất của khổ đau. Và cuối cùng buộc dạy ta buông bỏ. Letting go. Cái hơi thở cuối cùng trong 16 hơi thở là hơi thở về sự buông bỏ. Renunciation. Phong khí. Buông bỏ là chìa khóa của hạnh phúc. Hạnh phúc chân thật, hạnh phúc sâu sắc nhất. Và mình đừng có bắt buộc người ta phải buông bỏ. Người ta buông bỏ được là nhờ người ta có tuyệt giác. Và ta phải thực tập, ta phải sống tới một cái mức độ nào đó rồi, thì ta mới có khả năng buông bỏ. Và ta có thể buông bỏ sớm. Hay là ta rất trễ chúng ta mới buông bỏ được? Trong cuộc sống, những người còn trẻ tuổi, họ có cảm nghĩ rằng họ không thể nào buông bỏ được. Tại vì con đường mà họ đang đi là con đường của sự ham muốn. The path of desire. The Path of Design Dục mà đây là những cái rất tự nhiên trong con người của chúng ta tức là ham muốn chúng ta ham gì? chúng ta ham ăn ngon Chúng ta muốn ăn ngon, chúng ta muốn mặt đẹp, chúng ta muốn có nhiều tiền, chúng ta muốn được khen ngợi. Chúng ta muốn thỏa mãn những cái sắc dục của chúng ta. Chúng ta là người trẻ, chúng ta nghĩ rằng cái hạnh phúc của chúng ta là khi chúng ta được ăn ngon, được mặc đẹp, có tiền nhiều, chúng ta được khen người. Và chúng ta có thể làm thỏa mãn những cái ái dục của chúng ta. Thì bây giờ đối với người trẻ mà chưa tu học, chưa nếp những cái khổ đau của ngũ dục, thì ta nói rằng em phải buông bỏ, em không nên theo con đường đó, tại con đường đó nó đưa tới những cái khổ đau cho em, thì có thể chúng ta không có thành công, chúng ta phải để cho người trẻ đó. vấp váp, khổ đau tới một mức độ nào đó thì người trẻ đó mới có thể buông bỏ được. Tại sao có những người trẻ 16, 18, 20, 25 tuổi mà đã buông bỏ được? Có phải là vì những người đó đã được đã được thuyết phục bằng lời nói hay là bằng sự cám dỗ hay không? Hay là tại vì những người đó tuy là trẻ, Nhưng đã có đủ tuổi giác để thấy rằng những con mồi này nó đưa lại nhiều đau khổ hơn là nhiều hạnh phúc. Và cái sự buông bọt người đó, cái renunciation của người đó, nó đã xảy ra vì người đó đã thấy được, đã thấy được rằng những cái dục vọng kia nó đem lại đau khổ. Có thể là người đó còn trẻ. Nhưng mà đã thấy được những cái đau khổ, những cái nhiều khê, những cái vương mắt, những cái trần lụy của cái sự chạy theo đuổi những cái đối tượng của dục vọng này. Cho nên người đó từ cái tuệ giác đó mà đã đi tới cái sự quyết định là buông bỏ. Khi mà buộc hiến tặng cho chúng ta 5 giá quý bảo. Thì buộc mong ước rằng chúng ta đã có một cái tuệ giác tối thiểu nào đó để có thể thấy rằng ta đã có thể bắt đầu thực tập được cái sự buông bỏ, buông bỏ tới một mức độ nào đó. Đứng về phương diện con đường của sự hâm muốn thì có thể người kia đang vẫn còn đang đi trên đường của sự hâm muốn. Nhưng mà vì đang đi trên con đường của sự hâm muốn đó, cho người đó bắt đầu có thể thấy được cái tuổi giác, có được cái tuổi giác. Là tại vì trong cái sự hấp tấp đi tìm sự hướng thổ những cái dục lạc này, thế nào người đó cũng vấp chạm, va chạm với những cái khổ đau. Và vì vậy cho nên càng va chạm với khổ đau nhiều từng nào, càng thấy cái giá trị của năm giới quý báu từng đó. Đối với những người đó buộc nói rằng, nếu anh muốn đi trên con đường, Có sự hám uống thì anh cứ đi đi. Nhưng mà nếu anh đau khổ thì đấy là cậm nang cho anh. Đó là năm giới. Chúng ta hay ví dụ một cái thức ăn nào đó mà chúng ta rất thèm. Nhưng mà cơ thể của chúng ta nó không có chịu đựng được thức ăn đó. Mà nếu chúng ta ăn thức ăn đó nhiều, hơi nhiều. thì cơ thể của chúng ta sẽ phát hiện ra những cái đau khổ, những chất béo, những chất ngọt. Chúng ta ai cũng ưa những chất béo và những chất ngọt. Nhưng mà có nhiều trường hợp. Nếu chúng ta ăn chất béo đó hơi nhiều hay chất ngọt đó hơi nhiều thì nó tạo ra những cái đau khổ trong cơ thể của chúng ta. Và vì vậy cho nên ta biết rằng mỗi ngày ta chỉ nên ăn một cái lượng nào của chất béo và một lượng nào của chất ngọt thôi. Và khi người ta đưa tới nhiều quả ta có khả năng bông bỏ không? Từng đó đủ rồi. Ví dụ như mình mời một hộp sô-cô-la, thì người kia sau khi ăn một cái sô-cô-la xong rồi, mình mời cái sô-cô-la thứ hai người đó, và thôi, một cái là đủ rồi. Người đó đã có khả năng buông bỏ. Người đó có tuổi giác, biết rằng mình ăn cái thứ hai, cái thứ ba thì bây giờ cái miệng mình nó dễ chịu. Nhưng mà sau này, chỉ cần tối hôm nay là bạn đã bắt đầu thấy được cái hậu quả của cái miếng sô-cô-la thứ hai và thứ ba rồi. Thì người đó là người chưa hoàn toàn buông bỏ con đường của sự hâm muốn. Nhưng mà người đó bắt đầu tuổi giác, đã có tuổi giác và người đó đã có khả năng buông bỏ tới một mức nào đó. Và vì vậy cho nên 5 giấy quý bảo đã có thể được áp dụng cho những người đang đi trên con đường của giá mua. Anh nghĩ rằng anh phải đi trên con đường đó anh mới có hạnh phúc hả? Anh cứ đi đi. Anh cứ đi đi, nhưng mà đây tôi tặng cho anh một cái cậm nang. Trên con đường đó nếu anh gặp phải những cái đau khổ, thì anh sẽ đem cái cậm nang này ra áp dụng. Và vì vậy cho nên Đức Thế Tôn không nói rằng phải hoàn toàn buông bỏ con đường của ham muốn, thì phải bắt đầu thực tập giá pháp của ta. Đức Thế Tôn không nói như vậy. Mà ngay trong khi mình đang đi trên con đường của sự ham muốn, mà mình đã có thể bắt đầu thực tập được sự buông bỏ rồi. Ở bên Đăng Độ, người ta chia ra cuộc đời của con người thành ra bốn giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là chúng ta có thể đi trên con đường của sự ham muốn. Để làm thoả mãn 5 cái dục Tài, Sắc, Danh, Thực và Thủy Theo tôi thì Ở ngoài đời họ có 4 thứ thôi Tài, Sắc, Danh, Thực Còn Thủy tức là đặc biệt cho những người có lý tưởng Như là những ông Thế Tô mà ngủ nhiều quá thì không được Con đường thứ 2 là con đường của sự thành công Cái giai đoạn thứ hai là giai đoạn của sự thành công. Giai đoạn thứ nhất là của design. Giai đoạn thứ hai là success. Tại vì ăn ngon, mặc đẹp, có nhiều tiền để xài, được khen ngợi, có sắc dục. Cái đó nó chưa làm thoải mạng người ta lắm. Người ta muốn thành công. Người ta muốn có danh, người ta muốn có một điều gì lớn trong xã hội, người ta muốn có cái sự hẹn ngợi. Cái đó là sự thành công, success. Trong mỗi con người chúng ta đều có hai cái đó. Một là cái dục, hai là cái ý nguyện muốn thành công để cho thỏa mãn. Giai đoạn thứ ba là không thấy hạnh phúc nhiều trong hai giai đoạn đầu. Cho nên đi tìm cái hạnh phúc của mình trong phụng sự, service. Và trong khi phụng sự như vậy, mình quên cái ngã của mình, mình quên cái... Dục riêng của mình, mình quên cái danh riêng của mình, mà mình muốn phùng sự một cái ngã lớn hơn, cái đó là cái đoàn th�� của mình, cái dân tộc của mình, cái nhân loại của mình. Và lúc đó thì cái niềm vui của mình không phải là dồn chứa cho cái ngã, mà là cái hiến tận. Trước kia là ước muốn thâu tóm, the will to get, ước muốn thâu tóm cho mình. Và đến đây là ước muốn phùng sự, the will to give. Mình dùng cái cuộc đời của mình, mình dùng cái sức khỏe của mình, mình dùng cái tài năng của mình, mình dùng cái sự sáng tạo của mình để phục vụ cho một cái đoàn thể. Mình tìm cái hạnh phúc trong cái đoàn thể đó. Con đường này là con đường phùng sự. Và cái niềm vui của mình lớn hơn, lớn, lớn, lớn, lớn hơn, dài hơn. Nhưng mà cuối cùng, cái giai đoạn chót của đời một con người là cái giai đoạn mình đi tìm một cái gì, nó vĩnh cữu hơn, nó bất diệt hơn. Cái đó là con đường của sự buông bỏ. Renunciation. Buông bỏ tất cả để được tất cả. Tại vì trong hai cái giai đoạn đầu thì mình chỉ muốn phùng sử cho cái thân, cái thân thể, cái đời sống có giới hạn của mình. Tại cái thân thể này tối đa là nó có thể tồn tại được 100 năm. Những cái ham muốn kia và những cái sự thành đạt kia nếu mà nó có được thì nó cũng chỉ có được trong cái thời hạn tối đa là 100 năm. Có khi nó ít hơn nhiều, 5 năm, 10 năm. Đó là nói đến cái sự thành đạt. Còn phần lớn trong các trường hợp thì nó không có sự thành đạt. Và sau khi buông bỏ được hai cái đó, người ta đi tới cái con đường phùng sử. Là người ta bắt đầu đã bỏ cái ngã để đi tìm một cái ngã lớn. Nhưng mà cái ngã lớn đó nó vẫn còn nằm ở trong cái vô thường. Tại vì không có một chế độ nào, không có một đoạn thể nào mà nó có thể tồn tại hoài hoài được. Bởi vì vậy cho nên buông bỏ để đi tìm một cái gì? Buông bỏ để đi tìm một cái gì mà nó thật sự là miên viễn, trường cữu và nó hạnh phúc hoàn toàn. Cái đó gọi là cái ultimate concern. Cái ước muốn tối hậu của con người là đi tìm cái sự bất diệt, cái sự vĩnh cữu, cái hạnh phúc vượt ra khỏi những cái biến thiên, lên xuống, có không và còn mất. Vì vậy cho nên sau khi đã đi trên con đường ham muốn, người ta muốn đi trên con đường thành công, Và nhờ những cái khổ đau, nhờ những cái tuổi giác đạt được trong hai con đường đó, người ta chuyển sang con đường phùng sự. Và người ta có thể để hết tâm tư đời sống của mình trên con đường phùng sự. Người ta cũng có thể có hạnh phúc, nhưng mà rốt cuộc người ta thấy rằng cái cái mà người ta thực sự mong muốn. là một cái gì không có nằm ở trong phạm vi sinh diệt, một cái gì nó có giá trị tuyệt đối. Và vì vậy cho nên chỉ có thể buông bỏ tất cả những cái đó thì mới có thể đạt tới cái đối tượng cao quý này mà thôi. Đó là path of renunciation. Trong khi đó, Thì trong truyền thống Đạo Bụt, mình không có phân chia ra 4 giai đoạn như thế này của đời sống. Là tại vì sao? Tại vì cái buông bỏ đó mình đã thực tập ngay khi mà mình đang đi trên con đường của sự hâm mộ. Nếu mà có tránh niệm, nếu mà có tuổi giác, Thì là ngay trong khi mình đang đi trên con đường hãm muốn, mình vẫn đã có thể thực tập sự buồn bỏ từ từ rồi. Và năm giới quý bảo, tuy là gọi là cái nguyên tắc để sống cuộc sống hàng ngày của chúng ta, nhưng mà trong đó nếu chúng ta quán chiếu và thực tập sâu sắc, thì trong năm giới đã có sự buồn bỏ, đã có sự yếu tố của buồn bỏ. Trong khi đi trên con đường của Ra Muông, người ta muốn thoả mạng những dục vọng này. Nhưng mà khi mà đi tìm sự thoả mạng của những dục vọng đó, người ta vấp phải những đau khổ. Và vì vấp phải những đau khổ cho nên người ta biết rằng người ta phải đi theo một nguyên tắc nào đó. Và nguyên tắc đó có thể thấy được rõ ràng trong nông giới quý bảo. Hãy subscribe cho kênh Ghiền Mì Gõ Để không bỏ lỡ những video hấp dẫn Chúng ta đang quán chiếu để thấy rằng Bốn cái giai đoạn này của một đời người có thể tìm thấy ngay trong cuộc sống. Một giai đoạn, ở đây một người xuất gia trẻ đang thực tập buôn bỏ. Người xuất gia trẻ này có ước muốn đạt tới cái bản môn. Tức là cái thế giới của sự không sinh và không diệt. Tuy là người xuất gia trẻ này mới có 20 tuổi hay là 25 tuổi, nhưng mà người xuất gia trẻ này có thể thấy được rằng những cái... Những cái mà những người khác đang đi tìm trên con đường dục, trên con đường thành công, trên con đường phùng sự, nó chẳng qua chỉ là dầu sao, nó có sự tiến bộ sâu sắc vươn lên. Nhưng mà rốt cuộc... Thì cái mà ước muốn thăm sâu nhất của mình, cái gọi là ultimate concern của mình là tiếp xúc được với thế giới không sinh và không diệt. Nó đưa tới một trạng thái vắng lặng, an ổn, tuyệt đối. Thì cái này người xuất gia trẻ đã có thể thấy được và mình đang đi trên con đường đó. Tuy nhiên, cái sự buông bỏ này, người xuất gia trẻ cũng có thể thực tập được ngay trong những cái lĩnh vực của sự ham muốn, của sự thành công và của sự phùng sự. Tại vì trong khi người xuất gia trẻ... Nhận thức rằng cái mục tiêu tối hậu của mình là đạt tới cái bản môn không sinh không diệt. Nhưng mà người xuất gia trẻ cũng tìm thấy niềm vui trong bước đường phùng sự. Khi mình nấu cơm cho tăng thân, khi mình chạy cổ cho tăng thân, khi mình quét nhà cho tăng thân, mình có niềm vui. Trong đời sống hàng ngày, chúng ta sống trong một cái tăng thân, chúng ta có một cái lý tưởng. Những cái việc mà chúng ta làm trong hàng ngày không phải là để chất chứa, để chất chứa, để làm, để phùng sửa cái ngạc của chúng ta. Mà chúng ta biết rằng chúng ta đang làm những cái đó để gây niềm vui. Và sự thành công trong một cái tăng thân thì chúng ta cũng đang đi trên con đường phùng sự. Và chúng ta thấy rất rõ rằng là trên con đường phùng sự này chúng ta đang thực tập vô ngã. Thay vì làm cái đó cho bản thân chúng ta, chúng ta làm cái đó cho tân thân, cho đoàn thể chúng ta. Rõ ràng là từ cái The Will to Get, chúng ta đi tới cái The Will to Give. Các vị cứ nghĩ đi. Lúc bắt đầu thì mình đi kiếm. cho bản thân mình, mình tranh đấu, đoạt những cái đó, kiếm được những cái đó cho bản thân mình, the will to get. Nhưng mà tới đây, cái niềm hạnh phúc của mình không phải là to get, mà là to give. Và lúc đó cái niềm vui của mình nó đã lớn hơn rồi. Và trong khi đeo đuổi cái lý tưởng của sự buông bỏ, mình vẫn có thể sống được cái niềm vui của cái sự phùng sự, căn cứ trên cái tuổi giác vô ngã. Và hai cái này nó không có chống đuối nhau. Thành công. Thì chúng ta cũng muốn thành công. Tuy rằng chúng ta vẫn đã có cái... Đã có cái thao thức muốn đạt tới không sinh không diệt, nhưng mà chúng ta cũng vẫn muốn thành công. Nhưng cái thành công này không phải là thành công trong cái ngã. mà thành công cho một cái lý tưởng trong cái tăng thăng. Ví dụ như chúng ta muốn cho mọi người đều được tiếp xúc với tranh pháp. Chúng ta muốn cho mọi người có cơ hội để tu tập, để chuyển hóa. Chúng ta muốn cho những cái bạo động, những cái căm thù, những cái ích kỳ, những cái kỳ thị ở trong xã hội, nó bớt đi. Và những cái muốn đó cũng là muốn. Cái sự thành công đó không phải là sự thành công cho cái ngã của chúng ta, mà cho cả nhân loại, cho xã hội. Thành ra tuy là chúng ta đang đi trên con đường thứ tư, mà chúng ta vẫn còn đi trên con đường thứ ba, và chúng ta vẫn đi trên con đường thứ hai. Là con đường của sự thành công. The will to succeed. 1C, 2C. Trong khi đó, thì chúng ta, người xuất gia trẻ đó, vẫn có thể đang đi trên con đường của ham muốn. Nhưng mà cái ham muốn này, nó không còn là cái sự ham muốn của người không biết tranh pháp nữa. Chúng ta có ham muốn có hạnh phúc. Có điều là những cái hạnh phúc này nó không đưa tới cái sự phá đổ cái thân thể và cái tâm hồn của chúng ta. Cái dục kia là cái dục nó nó làm cho rã rời, nó làm cho tan nát cái thân và cái tâm của người hành lạc. Còn cái dục này của người tu có cái người đã dẫn thân vào trên con đường tìm kiếm sự bất sinh bất diệt rồi. Cái này gọi là cái hiền pháp lạc tru. Chúng ta thở vào một hơi, chúng ta cảm thấy ta đang còn sống. Chúng ta mỉm cười, chúng ta thấy sự sống mộng nhiệm. Đó cũng là sự hưởng thụ, đó cũng là sự ăn lạc. Chúng ta rất cần sự ăn lạc đó. Chúng ta biết đi thiền hành, chúng ta biết ngồi ăn cơm im lặng. Chúng ta có thể thưởng thức được vị ngọt của một trái cam. Nhưng mà tất cả những điều đó đều được so sáng bởi tránh niệm. Tại vì trong khi chúng ta ngắm một cái cảnh mặt trời lặng, chúng ta thấy tất cả những cái đẹp của mặt trời lặng, chúng ta được nuôi dưỡng bởi cảnh đẹp của mặt trời lặng đó, nhưng mà chúng ta được soi sáng bởi cái tránh niệm về vô thường. Cánh trời lặng này nó là vô thường. Vì vậy cho nên ta không có tham đắm và mắc kẹt vào những cái gì mà vô thường. Khi mà chúng ta ăn một trái cam, chúng ta biết rằng trái cam đó ngọt. Và chúng ta biết rằng trái cam này nó không có tạo ra những cái đau nhứt ở trong cơ thể. Nếu chúng ta có một cái bào tử, nó không có chịu đựng được cái acid, thì chúng ta nói rằng trái cam này mình không nên ăn. Và chúng ta không có đau khổ gì cả. Tại vì trên con đường dục này, ta đã bắt đầu thực tập được sự buôn bỏ. Hiện pháp lạc trú cũng là dục. Nhưng mà dục đây, nó không phải là cái thứ dục, mà nó tạo ra cái sự tan nát, hư hỏng, bề rạc của cơ thể và của tâm hồn. Là tại vì sao? Tại vì ở đây chúng ta có tránh niệm, chúng ta có tuệ giác. Nhờ tuệ giác, nhờ tránh niệm. mà cái dục nó không có đưa chúng ta đi vào trong cái khổ đau nhờ tuệ giác và tránh niệm mà sự thành công này không phải là sự thành công của cái ngã mà của bồ đề tâm nhờ cái tuệ giác, nhờ tránh niệm này mà ta phùng sự mà ta tìm thấy cái hạnh phúc của sự phùng sự tại vì trong khi phùng sự như vậy chúng ta không có chờ đợi cái sự báo đáp đối với cá nhân mình và Và cái niềm v Chúng ta hoàn toàn do ở chỗ là hiến tặng mà không có đòi hỏi cái gì trả lại cho cá nhân mình. Vậy thì con đường của chúng ta đây không phải là một cái con đường nó trái lại với thiên nhiên. Trong ta có những ước muốn. Trong ta muốn có sự thành công, trong ta muốn có ý nguyện phục vụ, và trong ta cũng có hạt giống của sự buông bỏ. Tại vì chỉ khi nào buông bỏ thật sự thì chúng ta mới có hạnh phúc lớn. Mà sự buông bỏ này nó thực hiện ngay trên bước đường thứ nhất. Chúng ta nên biết rằng cái quan niệm một cuộc đời chia ra 4 giai đoạn này là một quan niệm rất là Ấn Độ, nó nằm trong Ấn Độ giáo. Và theo quan niệm này thì người ta chỉ nên đi tu khi người ta đã trải qua ê chề với hai con đường, hai con đường đầu và con đường thứ ba. Nhưng mà thực sự... Có nhiều người đi tới con đường thứ ba mà vẫn đau khổ ê chề như thường tại vì họ phùng sự, họ nghĩ là họ phùng sự, nhưng kỳ thực họ đang phùng sự cho cái ngã của họ, chứ không phải là phùng sự cho cái tăng thân, cho cái đoàn thể. Đôi khi mình tin rằng mình đang làm Phật sự, mình đang phục vụ nhân loại, kỳ thực ra mình đang phục vụ cho cái danh. Cái lợi của chính bản thân mình mà mình tự đánh lừa mình là mình đang phục vụ. Cho nên với cái tránh niệm, với cái tuệ giác, Chúng ta có thể đi một lần trên bốn con đường và không có con đường nào nó trái trở với con đường nào. Trong khi chúng ta buông bỏ, chúng ta vẫn có cái hạnh phúc. Chúng ta buông bỏ, chúng ta vẫn thành công được. Chúng ta buông bỏ, chúng ta vẫn có thể phùng sự được. Là tại vì sao vậy? Tại vì tất cả những thứ này chúng ta đều thực hiện trên cái nguyên tắc vô ngã. Và cái sự buông bỏ đây, nó có nghĩa là buông bỏ một cái ta riêng biệt. Và buông bỏ cái ta đó rồi, nhưng mà hạnh phúc vẫn có, thành công vẫn có, phùng sự cũng có, mà buông bỏ cũng có. Trong cái bài học này, chúng ta cần ghi nhớ cái điểm chính là khi mà nghe nói tới con đường của sự buông bỏ. Renunciation thì người ta nhất là người Tây Phương họ hay có cảm tưởng đây là quay lưng lại với cuộc đời buông bỏ hết và thấy như là giáo lý và sự thực tập buông bỏ tức là có tính cách yếm thế nhưng mà sự thực buông bỏ ở đây Là buông bỏ để có hạnh phúc. Từ cái hạnh phúc nhỏ tới cái hạnh phúc lớn. Nếu không có sự buông bỏ thì ta không thể nào có hạnh phúc được. Nhưng cái mà chúng ta gọi là hạnh phúc, nó chỉ là dục. Mà cái dục kia nó được căn cứ trên cái ngã chấp. Còn khi mà chúng ta đã có bắt đầu có tuổi giác, có tránh niệm rồi, thì chúng ta có thể buông bỏ ngay được trong đời sống hàng ngày. Và vì vậy cho nên cái đạo buộc của chúng ta mới được gọi là đạo buộc nhập thể, Engaged Buddhism. Hãy subscribe cho kênh Ghiền Mì Gõ Để không bỏ lỡ những video hấp dẫn Hãy subscribe cho